Áp xe phổi là gì? Cách điều trị áp xe phổi như thế nào?
Áp xe phổi là ổ mủ trong nhu mô phổi do viêm hoại tử cấp tính không do lao (vi khuẩn, ký sinh trùng, nấm), sau tạo thành các hốc mủ. Áp xe phổi có thể có một hoặc nhiều ổ. Khi điều trị nội khoa vượt quá 6 tuần mà thất bại, nó được gọi là áp xe phổi mãn tính.
Theo các nghiên cứu cho thấy, áp xe phổi là bệnh lý khá phổ biến trong các bệnh liên quan đến phổi. Độ tuổi mắc bệnh cũng không giới hạn nhưng phổ biến nhất là độ tuổi từ 25 – 45 và đang có xu hướng trẻ hóa. Bệnh thường gặp ở những người có hệ miễn dịch kém, thường xuyên hút thuốc lá, uống rượu bia. Tỷ lệ tử vong nếu không được điều trị ngay lập tức lên đến 40%. Vì vậy, việc trang bị những kiến thức cơ bản là vô cùng cần thiết. Cùng xem bài viết bên dưới để hiểu thêm về áp xe phổi.
Bệnh áp xe phổi là gì?
Áp xe phổi là bệnh nhiễm trùng phổi. Bệnh gây sưng mủ, hoại tử nhu mô phổi và hình thành các hang chứa các mảnh vụn hoặc dịch hoại tử do nhiễm vi sinh vật. Sự hình thành nhiều ổ áp xe có thể dẫn đến viêm phổi hoặc hoại tử phổi.
Xem thêm Những triệu chứng bệnh sốt rét? Cầm làm gì khi bị sốt rét
Áp xe phổi là một loại bệnh lý lây nhiễm ở nhu mô phổi sau khi người bệnh xuất hiện các đợt viêm nhiễm cấp tính trong các bệnh lý liên quan đến phổi như màng phổi, viêm phổi. Khi mắc bệnh, nhu mô phổi bị hoại tử, tạo thành dịch mủ và ổ áp xe chứa mủ, bạch cầu chết và vi sinh vật gây bệnh. Nguyên nhân chính của áp xe phổi là vi khuẩn, trong một số ít trường hợp do ký sinh trùng gây ra.
Có hai loại áp xe phổi phổ biến:
- Áp xe nguyên phát: Đây là dạng thâm nhiễm nhu mô phổi mà không có tổn thương trước đó.
- Áp xe phổi thứ phát: Là loại nhu mô phổi bị thâm nhiễm bởi các tổn thương có từ trước như giãn phế quản, hang lao hoặc các ổ dịch nhiễm trùng huyết,…
Nguyên nhân của áp xe phổi
Nguyên nhân gây áp xe phổi thường được chia thành các dạng sau:
Nhiễm trùng: Đây được coi là nguyên nhân phổ biến nhất trong các trường hợp áp xe phổi. Các tác nhân như vi khuẩn kỵ khí, ký sinh trùng và nấm là nguyên nhân chính gây viêm hoại tử nhu mô phổi. Các tác nhân này sẽ đi qua đường phế quản không khí để vào phổi.
Vi khuẩn kỵ khí là nhóm vi khuẩn phổ biến nhất có thể nhân lên mà không cần nhiều oxy. Chúng có nguồn gốc từ khu vực răng. Chảy mủ trong nhu mô phổi do vi khuẩn kỵ khí gây ra có mùi hôi thối đặc trưng. Vi khuẩn kỵ khí có thể gây ra nhiều ổ áp xe phổi lan tỏa, thường phối hợp với các vi khuẩn khác như phế cầu và liên cầu,… Vi khuẩn kỵ khí thường gặp là Bacteroide fragilis Peptococus, Bacteroide melaniogenus, Fusobaterium nucleotum, Peptostreptococcus,…
Ký sinh trùng: áp xe phổi do ký sinh trùng thường gặp ở đáy phổi phải kèm theo các tổn thương phản ứng của màng phổi. Khi mắc bệnh do tác nhân này, người bệnh sẽ tiết ra đờm có màu như socola, kèm theo máu tươi.
Các bài viết chủ đề sức khỏe tại đây
Nấm: Đây thường là nguyên nhân gây suy phổi ở những bệnh nhân có triệu chứng nghiện rượu, đái tháo đường hoặc suy giảm hệ miễn dịch do nhiều nguyên nhân khác. Nấm gây bệnh điển hình là Mucoraceae và Aspergillus spp.
Bệnh do dị vật: Dị vật qua thức ăn, nước uống vào phổi khi bệnh nhân bị sặc hoặc trào ngược dạ dày. Lâu dần, các dị vật này sẽ gây apxe trong phổi.
Người có bệnh lý nền: Khi mắc các bệnh như u phổi, ung thư phổi hay giãn phế quản, vết thương hở vùng ngực thì nguy cơ người bệnh bị áp xe phổi là rất cao. Apxe phổi có thể mắc cùng lúc hoặc sau các bệnh lý nền.
Các nguyên nhân dẫn đến áp xe phổi gây ra bệnh được chia thành các loại: áp xe phổi nguyên phát và áp xe phổi thứ phát.
Áp xe phổi nguyên phát
Áp xe phổi nguyên phát xuất phát từ nhiễm trùng ở phổi. Viêm phổi hít hình thành sau khi thức ăn hoặc dịch tiết từ miệng, dạ dày hoặc xoang đi vào phổi thay vì đi xuống thực quản. Đây là một nguyên nhân rất phổ biến của áp xe phổi nguyên phát.
Hít phải thức ăn thường gặp ở những người say hoặc bất tỉnh. Người hít phải thường làm tổn thương nhu mô phổi do có nhiều vi khuẩn, dù là vi khuẩn gây viêm nhiễm từ môi trường bên ngoài hay vi khuẩn thường trú trong miệng, đường hô hấp hay dạ dày.
Nghiện rượu cũng là một nguyên nhân phổ biến của áp xe phổi. Người nghiện rượu thường dễ nôn mửa và bất tỉnh. Kết quả là, họ dễ bị nôn mửa và vi khuẩn từ dạ dày, dẫn đến viêm phổi. Ngoài ra, người nghiện rượu còn bị suy giảm hệ miễn dịch do tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng không bình thường, tạo điều kiện cho viêm nhiễm phát triển.
Áp xe phổi thứ phát
Các nguyên nhân của áp xe phổi thứ phát bao gồm các nguyên nhân không bắt nguồn từ tình trạng viêm nhiễm của nhu mô phổi. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có thể do: tắc nghẽn các đường dẫn khí lớn trong phổi hoặc các bệnh lý về phổi mà người bệnh mắc phải hoặc viêm nhiễm từ các cơ quan khác lây lan qua phổi.
Biến chứng của bệnh áp xe phổi
Áp xe phổi nếu không được điều trị sớm hoặc điều trị không đúng cách có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm như:
- Áp xe phổi ho ra máu: Do vỡ mạch máu, đặc biệt nghiêm trọng khi áp xe ở gần rốn phổi. Nếu không được cấp cứu kịp thời có thể ảnh hưởng đến tính mạng.
- Viêm mủ màng phổi: Xảy ra khi áp xe vỡ ra khỏi màng phổi.
- Nhiễm trùng huyết: Khi vi khuẩn trong áp xe xâm nhập vào máu và gây sốc nhiễm trùng và có thể tử vong.
- Ngoài ra, áp xe phổi còn gây ra các biến chứng khác như xơ phổi, giãn phế quản, áp xe não…
Dấu hiệu nhận biết khi bị ap xe phổi
Nhận biết sớm bệnh áp xe phổi sẽ giúp quá trình chẩn đoán và điều trị bệnh suôn sẻ hơn. Có thể nhận biết bệnh thông qua các dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng. Bê tông:
Dấu hiệu lâm sàng
– Giai đoạn mưng mủ: Ở giai đoạn này người bệnh có thể sốt cao lên đến 40 độ C kèm theo các triệu chứng khô môi, lưỡi bẩn và hơi thở có mùi. Một số trường hợp có thể có triệu chứng tiểu ít và nước tiểu sẫm màu hơn. Một số ít trường hợp khác gây ra các triệu chứng giống như cúm.
– Giai đoạn hóa mủ: Đây là thời điểm các triệu chứng bệnh biểu hiện một cách rõ ràng và đầy đủ nhất. Những triệu chứng này có thể được nhận thấy sớm hơn 5 đến 6 ngày hoặc muộn hơn đến 60 ngày kể từ thời kỳ có mủ. Người bệnh sẽ xuất hiện các triệu chứng ho, đau tức ngực và ho ra nhiều mủ từ 300 – 500 ml chỉ trong vòng một ngày. Các trường hợp khác có thể khạc ra ít mủ nhưng kéo dài hơn.
Nếu tác nhân gây bệnh là virus, mủ sẽ có mùi thối; là amip, mủ có màu sô cô la; Và do áp xe túi mật gây vỡ đường thông lên phổi nên mủ có màu vàng như mật. Khi hết giai đoạn hóa mủ, bệnh nhân sẽ bớt sốt và cảm thấy dễ chịu hơn. Trường hợp vẫn khạc ra mủ nhưng rất ít thì có thể do các ổ khác chưa bắt đầu vỡ mủ.
– Ổ mủ xuyên phế quản: Đến thời điểm này bệnh nhân vẫn có thể khạc ra mủ nhưng rất ít. Nếu thân nhiệt bệnh nhân tăng cao có thể do phổi bị ứ đọng hơi thở do dẫn lưu kém.
Dấu hiệu cận lâm sàng
Để có được chẩn đoán chính xác, ngoài các dấu hiệu lâm sàng của người bệnh, bác sĩ sẽ dựa vào các dấu hiệu cận lâm sàng, cụ thể:
Chụp X-quang: Dấu hiệu của bệnh được nhận biết khi trên phim chụp ổ áp-xe phổi có hình tròn, bờ không đều, khá dày chứa dịch bên trong. Đây cũng là biện pháp xác định chính xác vị trí ổ áp xe.
Ai có nguy cơ mắc bệnh?
Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi (bao gồm cả người lớn và trẻ em), nhưng một số người có nguy cơ mắc bệnh cao hơn bao gồm:
- Người bị chấn thương vùng ngực như mảnh đạn, dị vật trong phổi;
- Sau khi đặt nội khí quản, mở khí quản hoặc thở máy;
- Sau phẫu thuật vùng tai – mũi – họng hoặc răng – hàm – mặt;
- Bệnh nhân mắc các bệnh mạn tính như đái tháo đường gây suy kiệt cơ thể, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), giãn phế quản;
- Bệnh nhân sử dụng corticoid hoặc thuốc ức chế miễn dịch gây suy giảm hệ miễn dịch;
- Người có thói quen uống rượu hút thuốc lá thường xuyên;
- Bệnh nhân phải lưu ống thông tĩnh mạch trung tâm trong một thời gian dài.
Đường lây truyền của bệnh áp xe phổi
Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi (bao gồm cả người lớn và trẻ em), nhưng một số người có nguy cơ mắc bệnh cao hơn bao gồm:
- Người bị chấn thương vùng ngực như mảnh đạn, dị vật trong phổi;
- Sau khi đặt nội khí quản, mở khí quản hoặc thở máy;
- Sau phẫu thuật vùng tai – mũi – họng hoặc răng – hàm – mặt;
- Bệnh nhân mắc các bệnh mạn tính như đái tháo đường gây suy kiệt cơ thể, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), giãn phế quản;
- Bệnh nhân sử dụng corticoid hoặc thuốc ức chế miễn dịch gây suy giảm hệ miễn dịch;
- Người có thói quen uống rượu hút thuốc lá thường xuyên;
- Bệnh nhân phải lưu ống thông tĩnh mạch trung tâm trong một thời gian dài.
Chẩn đoán bệnh áp xe phổi như thế nào?
Việc chẩn đoán áp xe phổi để có kết quả chính xác cần dựa vào các triệu chứng lâm sàng như sốt, mệt mỏi, đau ngực, đau bụng, ho khạc đờm, mủ, mùi hôi kết hợp với các triệu chứng cận lâm sàng bao gồm các phương pháp xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh sau:
- Nuôi cấy đờm, dịch mủ xác định vi khuẩn gây bệnh.
- CBC: bạch cầu tăng béo phì, tốc độ lắng hồng cầu nhanh.
X quang phổi: hình ảnh ổ áp xe phổi là một khối hình tròn, bờ không đều, khá dày và có mức hơi dịch bên trong. Phim nghiêng là cần thiết để xác định chính xác vị trí của ổ áp xe. Có trường hợp dày dính màng phổi nếu ổ áp xe vỡ vào màng phổi gây viêm mủ màng phổi.
Chẩn đoán xác định:
Ung thư phổi: nếu người bệnh xuất hiện các triệu chứng nghẹn, nói khàn, móng tay có men, ngón tay dùi trống, phù nề áo khoác… rất có thể đó là dấu hiệu của bệnh ung thư phổi. X-quang phổi thấy thành hang dày, thường lệch tâm, xung quanh có tua gai, trong lòng lồi không đều, hiếm khi có mực nước ngang. Người bị ung thư phổi áp xe thường >45 tuổi, có tiền sử nghiện thuốc lá, thuốc lào.
Kén phổi bội nhiễm: Biểu hiện lâm sàng của bệnh lý này tương tự như áp xe phổi, X-quang phổi thấy hình thành hang thành mỏng < 1 mm, có mức dịch và sau điều trị vẫn tồn tại kén khí.
Giãn phế quản hình túi: X-quang phổi thấy hình ảnh nhiều ổ sáng xen kẽ với những vùng mờ không đều hoặc chụp cắt lớp vi tính lồng ngực 1 lát cắt mỏng cho hình ảnh giãn phế quản hình túi tại chỗ.
Lao phổi: Bệnh nhân được chẩn đoán lao phổi trên phim X-quang phổi cho thấy tổn thương thâm nhiễm hoặc xơ với một hoặc nhiều hang, thường nằm ở đỉnh phổi.
Bị áp xe phổi có điều trị được không và bằng cách nào?
Điều trị kháng sinh
Phác đồ điều trị bệnh nhân apxe có sự phối hợp ít nhất 2 loại kháng sinh, có thể tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp và uống liều cao ngay từ đầu. Thuốc kháng sinh nên được sử dụng ngay sau khi lấy mẫu xét nghiệm vi sinh vật từ người bệnh. Thuốc kháng sinh có thể được thay đổi dựa trên các đặc điểm lâm sàng và kháng sinh đồ. Tuy nhiên, lưu ý rằng việc thay đổi này phải có chỉ định của bác sĩ. Đồng thời, người bệnh cũng cần lưu ý thời gian dùng kháng sinh tối thiểu là 4 tuần.
Dẫn lưu ổ apxe
Dẫn lưu lồng ngực: Các bác sĩ sẽ dựa vào kết quả chụp X-quang hoặc CT scan phổi thẳng, xiên để xác định vị trí ổ áp xe và lựa chọn vị trí thích hợp để bệnh nhân dẫn lưu và sờ nắn lồng ngực. Việc dẫn lưu được thực hiện nhiều lần trong ngày, đầu tiên trong vài phút, sau đó kéo dài dần và kết hợp với vỗ ngực. Vỗ rung mỗi ngày 2-3 lần, đầu 5 phút sau tăng dần đến 10-20 phút.
Chọc dẫn lưu mủ qua da: Phương pháp này được các bác sĩ áp dụng cho các trường hợp áp xe phổi ngoại biên, tức là những ổ không thông với phế quản, những ổ áp xe sát thành ngực hoặc dính vào màng phổi. Bác sĩ sẽ dùng một ống thông chuyên dụng đặt vào ổ áp xe và hút dẫn lưu liên tục.
Điều trị phẫu thuật
Các trường hợp bệnh nhân được chỉ định các biện pháp ngoại khoa bao gồm:
- Ổ có đường kính lớn hơn 10 cm.
- Bệnh nhân không đáp ứng với các biện pháp dẫn lưu và kháng sinh.
- Áp xe phối hợp với giãn phế quản khu trú nặng.
- Bệnh nhân ho ra máu quá nhiều, nguy hiểm đến tính mạng.
- Biến chứng rò phế quản – khoang màng phổi được thể hiện.
- Bệnh lý nền nghi ngờ u phổi, ung thư phổi.
- Để được chỉ định điều trị phù hợp, người bệnh phải quan sát cơ thể để nhận biết những dấu hiệu đầu tiên và đến cơ sở y tế thăm khám kịp thời.
Phòng ngừa áp-xe phổi như thế nào?
Giữ gìn vệ sinh răng miệng, đặc biệt chú ý đến bệnh viêm nha chu, cần đi khám răng miệng định kỳ.
Điều trị triệt để các bệnh viêm đường hô hấp, nhất là ở mũi và họng.
Không lạm dụng rượu bia.
Những người có nguy cơ cao hít phải dịch tiết hoặc thức ăn từ miệng và cổ họng nên để đầu giường cao hơn 30°.
Khi nghi ngờ có các triệu chứng liên quan đến áp xe phổi, đặc biệt ở những người có nguy cơ cao, cần đến các cơ sở y tế để thăm khám và xét nghiệm.
Ngày nay, tỷ lệ mắc áp xe phổi phần lớn đang giảm. Tiên lượng của bệnh cũng khá tốt. Nơi 90% bệnh nhân khỏi bệnh chỉ với kháng sinh và không còn để lại di chứng. Tuy nhiên, bệnh cũng có những biến chứng nguy hiểm đến tính mạng.
Tiên lượng xấu hơn ở những người có nguy cơ cao. Đặc biệt là suy giảm miễn dịch, ung thư phế quản tắc nghẽn hoặc nhiễm trùng mắc phải khi nằm viện. Một số báo cáo thậm chí còn đưa ra tỷ lệ tử vong lên tới 2/3 trong những trường hợp như vậy. Đ.
Áp Xe Phổi
Áp xe phổi là gì? Cách điều trị áp xe phổi như thế nào?